Ngành công nghiệp về công nghệ giáo dục đang dần trở nên quá bão hòa?
Phiên bản gốc của bài viết được xuất bản trên Medium.
Ngày càng có nhiều dự án mới ra đời trong bối cảnh công nghệ giáo dục, nhưng bằng cách nào đó, một vài nền tảng công nghệ được coi là độc quyền trong ngành được giáo viên sử dụng ở mọi nơi khiến nhiều công ty quy mô nhỏ và công ty khởi nghiệp công nghiệp giáo dục phải đối đầu với cuộc chiến khó khăn.
Một trong những tên tuổi lớn bao gồm Google Classroom trong hệ thống giáo dục từ mẫu giáo đến lớp 12 (còn được gọi là K-12), phần mềm Blackboard và hệ thống quản lý giáo dục Canvas ở đại học, cuối cùng là Zoom – một phần mềm video ít người biết đến, tất cả đều trở nên phổ biến trong đại dịch COVID-19.
Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu về hệ thống giáo dục K-12 với tư cách giáo viên giáo dục đặc biệt cho thành phố Baltimore City trong 3 năm trở lại, tôi đã nhận thấy vài điều về ngành công nghiệp công nghệ – giáo dục: Có quá nhiều ứng dụng, nhiều chương trình và rất nhiều công nghệ khác nhau cho các nhà giáo dục sử dụng trong lớp học.
Đặc biệt là trong quá trình học trực tuyến ảo, nhà giáo dục hoàn toàn “quá tải” bởi có lượng lớn chương trình để thử nghiệm. Tôi là một người trẻ và có bằng thạc sĩ, tôi được biết đến là một giáo viên khá am hiểu công nghệ, nhưng vẫn có rất nhiều sự lựa chọn các chương trình để áp dụng.
Số lượng lớn chương trình đều phục vụ cho cùng một mục đích
Hãy lấy ví dụ về hai ứng dụng phục vụ cho các mục đích gần như giống nhau: Nearpod và Peardeck. Cả hai nền tảng đều là các cải tiến và tiện ích bổ sung của PowerPoint hoặc Google Slides – tất nhiên là cả hai đều hoạt động tốt. Tôi đã sử dụng qua cả hai, ngoài một chút khác biệt nhỏ, Nearpod và Peardeck thực sự rất tương đồng. Ngay từ khi học trực tuyến, tôi đã sử dụng và trở nên quen thuộc với ứng dụng Nearpod.
Mặt khác trường của tôi đã đăng ký sử dụng phần mềm Peardeck, vì thế tôi phải chuyển qua Peardeck và tập làm quen với chương trình mới. Việc đó không hề khó khăn bởi hai nền tảng gần như là giống nhau. Một ví dụ khác với hai trình đọc PDF mang lại cảm giác họ đang làm một việc giống nhau – Kami và OrbitNote. Chắc chắn là có nhiều khác biệt cơ bản, nhưng khi bạn dạy nhiều lớp học khoảng 30 học sinh một ngày và có ít thời gian để ăn trưa và làm việc cá nhân, liệu bạn có chú ý đến những khác biệt cơ bản đó? Câu trả lời là Không.
Bạn có thể thắc mắc: “ Không phải việc có nhiều sự lựa chọn cho các nhà giáo dục và nhà quản lý là điều tích cực hay sao?” Không hẳn là vậy. Chúng tôi đã rất mệt mỏi để đi đến quyết định “Chúng ta phải dùng chương trình công nghệ giáo dục nào?” ở gần cuối danh sách ưu tiên. Tôi rất tiếc. Điều đó là sự thật. Chúng tôi cần phải xác định những gì giống nhau, những gì mà đồng nghiệp chúng tôi cùng sử dụng, và những gì sẵn có nhất.
Matthew Lynch tại The Tech Advocate chia sẻ rằng những công ty về công nghệ giáo dục với quy mô nhỏ phải đối mặt với một trận chiến khó khăn và bị giới hạn sự lựa chọn bởi các công ty giàu có nhất – là điều không tốt để công ty nhỏ hơn có được tiếng nói riêng và sáng tạo trong ngành công nghiệp này. Đồng thời, nhiều công ty công nghệ giáo dục có kỹ sư không có kinh nghiệm và kiến thức về môi trường sư phạm.
Việc sử dụng công nghệ giáo dục giả định rằng một lớp học có khả năng tiếp cận công nghệ
Trong một thế giới lý tưởng , lớp học ở khắp mọi nơi đều sẽ tiếp cận với máy tính và công nghệ để có cơ hội tận dụng những lợi ích của công nghệ giáo dục. Nhưng đây không phải là thế giới lý tưởng đó, tôi làm việc tại ngôi trường với tòa nhà mới cùng rất nhiều giáo viên truy cập máy tính hằng ngày, tuy nhiên tôi phải chia sẻ máy tính mà tôi có thể sử dụng với các giáo viên khác và nài nỉ đồng nghiệp đưa nó cho tôi mỗi khi tôi có bài tập liên quan đến kỹ thuật số với học sinh của mình.
Phần lớn trong năm, tôi phải in tài liệu và yêu cầu học sinh làm bài với giấy và bút – theo cách hoàn toàn truyền thống.
Nhiều giáo viên có trường hợp tệ hơn như vậy!
Lynch lưu ý rằng không phải người học nào đều có thể tiếp cận được công nghệ giáo dục, và những ngôi trường có kinh phí thấp không thể sử dụng công nghệ giáo dục giống như những trường học có kinh phí cao hơn. Và với sự đề cao quá mức vào công nghệ giáo dục có thể tạo ra sự phân biệt giữa những học sinh khó khăn và học sinh có đặc quyền tốt hơn.
Xuyên suốt đại dịch, thuật ngữ “khoảng cách kỹ thuật số” trở nên rất phổ biến, dùng để chỉ khoảng cách giữa những cá nhân có hoặc không tiếp cận được công nghệ kỹ thuật số.
Trở lại với tình trạng quá bão hòa, đây là cách các nhà giáo dục, lãnh đạo trường học và các chính sách giáo dục có thể chống lại vấn đề có quá nhiều chương trình trên thị trường khiến các nhà giáo dục phải đưa ra nhiều quyết định, chọn lọc.
Tiêu chuẩn hóa và gắn bó với một số chương trình cần thiết
Trong ngành giáo dục, không có gì kỳ lạ khi hằng năm đều có lãnh đạo mới hay một số thúc đẩy mới từ ban lãnh đạo trái ngược hoàn toàn so với năm trước đó.
Việc mà trường tôi đã làm rất tốt là chuẩn hóa việc sử dụng Peardeck và triển khai đào tạo chương trình trong những khóa đào tạo phát triển chuyên môn cho mọi giáo viên. Bằng cách đó, học sinh sẽ không gặp những vấn đề gây hoang mang khi chuyển đổi các chương trình khác nhau trong mỗi lớp học. Một số cá nhân có thể không đồng ý về việc sử dụng ứng dụng hay chương trình bất kì, nhưng với công nghệ giáo dục, sự tiếp liền luôn tốt hơn so với việc chuyển đổi quá nhiều. Tương tự, các học khu không cần các chương trình phục vụ những tính năng giống nhau.
Để vượt qua sự bão hòa của “đại dương” công nghệ giáo dục, điều đó hoàn toàn có thể. Vào thời điểm hiện tại, các nhà tiếp thị trong ngành cần phải bình tĩnh.
Xem thêm: Hợp nhất mô hình “Học tập kết hợp” bằng việc kết hợp các khóa học hỗ trợ trực tuyến và trực tiếp